Bệnh đạo ôn cổ bông không
xa lạ với người trồng lúa. Theo báo cáo từ các xóm, hiện nay trên địa bàn xã Yên Thổ tại một số xóm như
Lũng Cuổi, Khau Han, Khuổi Sáp, Bản Búng bị bệnh đạo ôn cổ bông phát sinh, phát
triển gây hại cho cây lúa khá nhiều.
Tác nhân gây bệnh đạo ôn cổ bông
Rất nhiều người nhầm
lẫn là bệnh đạo ôn lá (cháy lá) và bệnh đạo ôn cổ bông trên lúa là hai bệnh
khác nhau. Tuy rằng hai tên gọi khác nhau nhưng đó là một bệnh và do một tác
nhân gây bệnh là nấm Pyricularia oryzae gây ra. Việc gọi tên khác nhau chỉ để chỉ
rõ bộ phận gây hại chính của chúng trên cây lúa.
Dấu hiệu của bệnh đạo ôn cổ bông ở lúa
Nếu gây hại trên lá thì gọi là “đạo ôn lá”, hoặc chỉ gọi là bệnh
đạo ôn (miền Nam gọi là cháy lá), gây hại cổ bông thì gọi là “bệnh đạo ôn cổ
bông”, gây hại cổ gié thì gọi là “bệnh đạo ôn cổ gié”,… Vì cùng một tác nhân
gây bệnh, nên biện pháp phòng trừ là giống nhau.
Vì sao các biện pháp trừ bệnh hiệu quả thấp?
Sở dĩ việc trừ bệnh
hiệu quả thấp, hoặc không có hiệu quả do vị trí gây hại là cổ bông chỉ có thể
“phòng” chứ không thể trừ. Khi bệnh biểu hiện ra bên ngoài gây khô cổ bông, bạc
trắng bông nghĩa là lúc vết bệnh đã ở giai đoạn mãn tính. Ngoài ra, lượng nước
phun thiếu cũng là nguyên nhân quan trọng.
Thời gian từ khi bào
tử nảy mầm, xâm nhiễm vào cổ bông đến lúc biểu hiện ra vết bệnh mãn tính từ 4-
6 ngày, tùy theo nhiệt độ, độ ẩm. Có nghĩa rằng, khi quan sát thấy bông bạc là
nấm bệnh đã xâm nhiễm trước đó 4-6 ngày và không thể cứu vãn.
Khi chưa biểu hiện ra
vết bệnh nhưng nếu bào tử đã nảy mầm (khoảng sau 5-6 giờ có ẩm độ), xâm nhiễm
(khoảng 6-10 giờ) và sợi nấm phát triển trong mô cây (1-3 ngày) là giai đoạn
cấp tính. Đối đạo ôn lá thì đây là lúc xử lý tốt nhất, nhưng với bệnh đạo ôn cổ
bông thì đã muộn. Thuốc trừ bệnh đạo ôn có thể tiêu diệt được sợi nấm ở cổ
bông, nhưng phần cổ bông đã bị nấm bệnh làm tổn thương hoặc phá hủy, chỉ đợi
nắng lên cổ bông sẽ khô dần và bông bạc.
Vì vậy, đối với bệnh đạo ôn cổ bông, chỉ có thể phòng chứ không
thể trừ. Nên các biện pháp trừ bệnh đạo ôn cổ bông hiệu quả thấp, hoặc nói
thẳng ra là không có hiệu quả.
Khi nào cần phòng bệnh đạo ôn cổ bông?
Đối với bệnh đạo ôn cổ
bông chỉ có phòng bệnh mới mang lại hiệu quả, tuy nhiên không phải vì vậy mà
chúng ta đồng loạt phòng bệnh cho tất cả các giống lúa, xứ đồng, mùa vụ. Để
tránh lạm dụng thuốc BVTV, giảm thiểu rủi ro phơi nhiễm, tồn dư thuốc trên nông
sản và tác động xấu đến môi trường, cần phòng trừ trong các trường hợp sau:
+ Giống nhiễm: Là các giống lúa thường nhiễm bệnh đạo ôn lá, đạo ôn cổ bông ở
các vụ trước, năm trước tại khu vực gieo trồng nào đó. Cùng một giống, nhưng ở
vùng sinh thái này là giống nhiễm nhưng vùng khác có thể không phải là giống
nhiễm.
+ Từng nhiễm đạo ôn lá: Cùng vụ SX, nếu giống đó từng nhiễm đạo ôn lá, thì nguy cơ nhiễm
đạo ôn cổ bông rất cao, vì nguồn bệnh có sẵn, được tích lũy trên ruộng chỉ chờ
điều kiện phát sinh.
|
Bệnh đạo ôn cổ bông
tại xóm Lũng Cuổi
|
Bệnh đạo ôn ở xóm Khuổi Sáp
+ Lá đòng có vết bệnh mới: Lá đòng là lá sát bông lúa, được hình thành
muộn nhất. Nếu lúa sắp trỗ hoặc đã trỗ mà trên lá đòng có vết bệnh đạo ôn mới,
thì cần phòng trừ đạo ôn cổ bông.
+ Rốn dịch đạo ôn: Là nơi hàng năm bệnh đạo ôn cổ bông thường phát sinh gây hại
hoặc trong cùng vụ nơi đó là rốn dịch đạo ôn lá (kể cả giống đó không nhiễm đạo
ôn lá). Vì nguồn bệnh tích lũy rất lớn, điều kiện tiểu khí hậu thuận lợi cho
bệnh phát triển.
+ Trồng đại trà 1 giống làm giảm đa dạng sinh học: Các khu vực trồng đại trà một giống lúa thuần,
hoặc đặc biệt là một giống lúa lai 3 dòng thì nguy cơ bùng phát dịch rất cao vì
SX hạt giống lai thường sử dụng bất dục đực tế bào chất, nên nếu xảy ra dịch
bệnh nào đó sẽ diễn ra đồng loạt do đồng tế bào chất.
+ Thời tiết thuận lợi cho bệnh phát triển: Trời âm u, có sương mù, có mưa vừa, mưa phùn,
ẩm độ không khí cao, nhiệt độ từ 20-28oC rất thuận lợi để bệnh phát triển.
Ngoài ra cần lưu ý, qua thực tiễn nhiều năm nay nếu ban ngày khô ráo, nắng nóng
mà ban đêm nhiệt độ xuống thấp dưới 30oC, có sương ẩm là điều kiện tốt nhất
bùng phát đạo ôn cổ bông.
Theo lý thuyết, nấm
bệnh đạo ôn chỉ phát triển tốt trong khoảng 20-28oC, nên khi nhiệt độ ban ngày
cao, không khuyến cáo phòng trừ. Tuy nhiên nắng nóng, khô ráo ban ngày rất
thuận lợi để bào tử nấm bệnh phát tán. Sương ẩm và nhiệt độ thấp về đêm thuận
lợi để bào tử nảy mầm và xâm nhiễm.
Nên phòng bệnh khi nào?
Thời điểm là yếu tố
then chốt nhất đối với phòng bệnh đạo ôn cổ bông. Thời điểm phun phòng thích
hợp nhất là lúc lúa bắt đầu trỗ (đã trỗ lác đác một vài bông trên ruộng). Nông
dân thường gọi thời điểm này, là trỗ lác đác, trỗ le te, rạn áo the, nứt đòng,
trỗ vài bông,…
Cụ thể là trước lúc cổ bông đi qua mắt (nách) lá đòng. Nách lá
đòng là nơi đọng sương và bào tử nấm bệnh chờ sẵn, khi cổ bông đi qua nách lá
đòng cũng là lúc tiếp xúc với môi trường bên ngòai, do cấu tạo đặc thù của cổ
bông rất dễ bám dính bào tử.
Lượng nước phun bao nhiêu là đủ?
Chúng ta không thể dựa
vào lượng nước phun trên một đơn vị diện tích khi xử lý đạo ôn cổ bông mà phải
tuân thủ nguyên tắc “pha đúng nồng độ, phun ướt đều trên lá”. Tùy độ lớn của
cây lúa, tiết diện lá của giống lúa, số dảnh lúa/đơn vị diện tích để điều chỉnh
lượng nước. Thông thường lượng nước cần gấp 1,5-2 lần so với xử lý đạo ôn lá.
Tuyệt đối không áp
dụng lượng nước phun của giai đoạn đạo ôn lá cho đạo ôn cổ bông, vì giai đoạn
đạo ôn lá cây lúa chủ yếu đang thời kỳ đẻ nhánh, cây nhỏ, lá nhỏ, dảnh ít nên
lượng nước phun ít hơn.
Có thể
sử dụng những loại thuốc nào để phòng bệnh?
Một số thuốc có chứa các hoạt chất như Tricyclazole (Filia
525 SE,…), Fenoxanil (Katana 20 SC,…),… thường dung phổ biến nhất, mang lại
hiệu quả cao.
Ngoài ra, có thể sử dụng nhóm Strobilurin như Azoxystrobin
(Amistar Top 325 SC,…), Trifloxystrobin và nếu trong một vụ mà trước đó đã sử
dụng 2 lần nhóm này thì không nên sử dụng tiếp để hạn chế nguy cơ kháng
thuốc. Lưu ý, cùng một nhóm nhưng Trifloxystrobin tính lưu dẫn yếu cũng nên
hạn chế dung giai đoạn này.
|